Nét truyền thống kiến trúc dân tộc của Việt Nam
Nền kiến trúc độc đáo của mỗi dân tộc trên thế giới đều trải qua quá trình lịch sử dài lâu gắn liền với tính đặc thù của quá trình phát triển của dân tộc mình về mọi mặt. Hãy cùng kientrucvietas.com tìm hiểu kỹ hơn về nét truyền thống kiến trúc dân tộc của nước ta.
Nét truyền thống kiến trúc dân tộc Việt Nam ở thời kỳ văn hóa Đông Sơn thế kỷ thứ III trước Công nguyên đã định hình với đặc trưng là ngôi nhà sàn dáng hình độc đáo mà hình ảnh của nó được ghi lại trên trống đồng Ngọc Lũ. Những ngôi nhà sàn thời cổ có mái võng hình thuyền thuộc loại nhà có sàn thấp, với 3 gian thông nhau, bếp đặt ở chính giữa nhà, nhà có trang trí ở nóc, hồi, trên cột mái theo mô típ hình chim. Tuy nhà không lớn nhưng có hình dáng, tỷ lệ rất đẹp, phù hợp với tầm vóc của con người. Nhà sàn thời văn hóa Đông Sơn làm bằng tre, nứa, gỗ, và lợp lá nhưng không giống các nhà sàn khác của nhiều vùng trên thế giới. Xã hội trong thời kỳ sau này do đã có sự phân hóa giai cấp nên nhà cửa cũng to nhỏ, có sự trang trí khác nhau như dinh thự, cung điện của An Dương Vương, thành Cổ Loa thể hiện sự phòng thủ và kiên cố bên cạnh nhà ở của dân thường đơn sơ bằng thảo mộc. Từ cội nguồn, kiến trúc truyền thống chia thành 2 dòng:
Nét truyền thống trong dòng kiến trúc dân gian (Ảnh: Sưu tầm)
Dòng kiến trúc dân gian với nhà ở nông thôn có qui mô nhỏ, gặp phổ biến trong các làng xã cổ truyền ở các đô thị cổ Việt Nam. Loại kiến trúc dân gian này đến nay vẫn còn tồn tại ở nhiều vùng với các sắc thái địa phương của nó. Một số ít còn lưu lại trong các khu phố cổ ở một số thành phố, thị trấn...
Dòng kiến trúc chính thống bao gồm các thể loại: kiến trúc cung điện, dinh thự, kiến trúc lăng mộ, thành trì, kiến trúc tôn giáo như chùa, đình làng... thường có qui mô lớn, có sự tập trung tài năng, trí tuệ của các nghệ nhân, thợ cả của cả một vùng, một quốc gia.
Dòng kiến trúc chính thống này là tiêu biểu cho nét truyền thống kiến trúc dân tộc của Việt Nam. Nó đã tập trung được sức người, sức của, đã khai thác được trí tuệ và bàn tay khéo léo của những người thợ Việt Nam. Nói như vậy cũng không loại bỏ kiến trúc dân gian, không chứa chất các giá trị của truyền thống kiến trúc Việt Nam, văn hóa bản sắc dân tộc. Hay nói một cách cụ thể hơn, phấn đấu cho một nền kiến trúc tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Khi nói đến tính dân tộc và hiện đại trong kiến trúc không thể không nghiên cứu các đặc sắc của văn hóa dân tộc vì đặc sắc của văn hóa làm cho mỗi dân tộc hiện ra với những nét độc đáo phân biệt được với các dân tộc khác.
Nét truyền thống của căn nhà ở vùng nông thôn (Ảnh: Sưu tầm)
Kiến trúc truyền thống dân tộc muốn được phát huy và tỏa sáng thường phải là kết quả của một quá trình kế thừa liên tục các giá trị di sản cộng với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo những biểu hiện mới của những tài năng lớn biết khai thác và trân trọng các giá trị truyền thống trong sự năng động. Ngày nay, sẽ không có kiến trúc Nhật Bản, Na Uy... hiện đại, đầy bản sắc nếu như các nước này không có các kiến trúc sư lớn như Mayekawa, Junio Sakakura, Kenzo Tange, Alvar Alto, Jacobson... Như chúng ta biết, kiến trúc thuộc lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, nhưng thiên về khoa học xã hội. Vì vậy, cần có một phương pháp luận đúng đắn trong việc nghiên cứu mới mong tập hợp, phát hiện được đầy đủ các giá trị truyền thống. So sánh, phân tích cùng với những lý giải khoa học trong sự đối chiếu mới có thể phát hiện những nét riêng đặc thù, thấy được đâu là các yếu tố bản địa, ổn định, bền vững, đâu là yếu tố ngoại lai, hỗn dung văn hóa, cái theo mốt chỉ xuất hiện tạm thời...
Đã là bản sắc văn hóa, bản sắc kiến trúc thì phải là cái truyền thống đã được thử thách qua thời gian, qua lịch sử, là kết quả của một chuỗi kế thừa và phát triển tương đối liên tục, có được sức sống bền bỉ. Vì vậy, rõ ràng không thể xây dựng tiêu chí hay định chuẩn cho bản sắc kiến trúc, vì bản sắc văn hóa hay kiến trúc là một khái niệm, một phạm trù bao trùm, phức tạp đến mức trừu tượng, mang tính khái quát cao. Cái chứa đựng nhiều nhất bản sắc làm cho dân tộc đó hiện ra những nét độc đáo, phân biệt với các dân tộc khác thường không ở những biểu hiện về mặt hình thức cụ thể vốn dễ thay đổi khi mức sống, trình độ văn minh phát triển như y phục, kiểu cách tổ chức, không gian sống, tiện nghi, hình thức mái nhà, cấu trúc xây dựng... mà ở lối sống, triết lý thẩm mỹ, thói quen ứng xử, tập quán và bảng thang giá trị... có sức lưu giữ sâu sa và bền bỉ.
Nét truyền thống kiến trúc dân tộc được áp dụng trong công trình hiện đại (Ảnh: Sưu tầm)
Từ cách phân tích, so sánh cho thấy, trong các biện pháp tổ hợp nghệ thuật của từng cặp đối xứng như biến hóa và tương phản, tỉ lệ và tỉ xích thì kiến trúc Việt Nam thiên về biến hóa và tỉ lệ, cái đẹp, cái khéo của tác phẩm kiến trúc truyền thống Việt Nam có thể tìm thấy khá rõ ở sự phân tích sâu sắc, tính hài hòa, thống nhất và thanh thoát, gần gũi với con người thông qua tỉ lệ về cái đẹp, sự tinh tế và uyển chuyển giữa các chi tiết với nhau, giữa các chi tiết với tổng thể, tổng thể với con người, với cảnh quan. Ngoài ra, kiến trúc Việt Nam cũng không nhấn mạnh yếu tố màu sắc, chất họa hình mà chú ý nhiều đến sự hỗ trợ của phù điêu và ánh sáng.
Đặc điểm và bản sắc kiến trúc truyền thống trong kiến trúc hiện đại Việt Nam có lẽ cần thể hiện ở giải pháp tổ chức không gian theo tinh thần dân tộc, phù hợp với đặc thù khí hậu, cách ứng xử với thiên nhiên và con người trong văn hóa đời thường và sinh hoạt tâm linh người Việt. Có thể nói, nét truyền thống kiến trúc dân tộc được hình thành bởi sự hài hòa nhất thể của 3 yếu tố cơ bản là thiên nhiên, con người và xã hội. Nhờ đó, ông cha ta đã dựng nên các công trình phù hợp với tỷ lệ tầm thước của con người Việt Nam, gắn bó, hòa hợp với thiên nhiên và thể hiện rõ các bản sắc. Kiến trúc hiện đại chỉ có thể tiếp nối con đường đó để phấn đấu có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Theo Những sắc màu không gian